Bước tới nội dung

Amphiprion tricinctus

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Amphiprion tricinctus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Nhánh Ovalentaria
Họ (familia)Pomacentridae
Chi (genus)Amphiprion
Loài (species)A. tricinctus
Danh pháp hai phần
Amphiprion tricinctus
Schultz & Welander, 1953

Amphiprion tricinctus là một loài cá hề thuộc chi Amphiprion trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1953.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh được ghép bởi hai tính từ trong tiếng Latinh: tri ("ba") và cinctus ("dây thắt lưng"), hàm ý đề cập đến ba dải sọc trắng (đôi khi chỉ có hai) trên cơ thể của loài cá này[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

A. tricinctus có phạm vi phân bố giới hạn ở quần đảo Marshall; những ghi nhận trước đây của loài này tại Nouvelle-Calédonie là do nhầm lẫn với Amphiprion akindynos[1]. Loài này sinh sống gần các rạn san hô ngoài khơi và trong đầm phá ở độ sâu khoảng 3–40 m[1].

Ban đầu, A. tricinctus được biết là sống cộng sinh với hải quỳ thuộc bốn loài sau: Entacmaea quadricolor, Heteractis aurora, Heteractis crispaStichodactyla mertensii[3]; loài hải quỳ thứ năm được ghi nhận sau đó là Stichodactyla haddoni[4].

A. tricinctus có chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận là 13 cm. A. tricinctus có màu nâu sẫm hoặc đen với ba (hoặc hai) dải sọc trắng, trừ mõm, ngực, bụng, vây bụng và vây hậu môn thường có màu cam phớt vàng. Vây lưng và vây đuôi tiệp màu với thân. Tuy nhiên, những cá thể sống cộng sinh với hải quỳ S. mertensii lại có màu nâu sẫm/đen trên toàn cơ thể với sọc trắng[5].

So với A. tricinctus, Amphiprion fuscocaudatus có các vệt trắng ở trên đuôi, và dải trắng trên cuống đuôi của Amphiprion chrysogaster thì rộng hơn. Cả A. chrysogasterA. fuscocaudatus có nhiều màu vàng hơn ở ngực, bụng, vây bụng và vây hậu môn, trong khi những phần này ở A. tricinctus lại sẫm màu cam hơn[5].

Số gai ở vây lưng: 10–11; Số tia vây ở vây lưng: 15–17; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 13–14[3].

Sinh thái học

[sửa | sửa mã nguồn]

Cũng như những loài cá hề khác, A. tricinctus là một loài lưỡng tính tiền nam (cá cái trưởng thành đều phải trải qua giai đoạn là cá đực) nên cá đực có kích thước nhỏ hơn cá cái. Một con cá cái sẽ sống thành nhóm cùng với một con đực lớn (đảm nhận chức năng sinh sản) và nhiều con non nhỏ hơn. Trứng được cá đực lớn bảo vệ và chăm sóc đến khi chúng nở[3].

Thức ăn của A. tricinctus là các loài giáp xác chân chèo, các loài giun biểntảo[1].

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

A. tricinctus được đánh bắt bởi những người buôn bán cá cảnh và cũng đã được nhân giống trong điều kiện nuôi nhốt[1].

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e Jenkins, A.; Allen, G.; Myers, R.; Yeeting, B.; Carpenter, K.E. (2017). Amphiprion tricinctus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2017: e.T188620A1903556. doi:10.2305/IUCN.UK.2017-2.RLTS.T188620A1903556.en. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2021.
  2. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Series OVALENTARIA (Incertae sedis): Family POMACENTRIDAE”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2021.[liên kết hỏng]
  3. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Amphiprion tricinctus trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2021.
  4. ^ Hobbs, J.-P. A.; Beger, M.; Brauwer, M. De; Emslie, M. J. (2014). “North-eastern range extension of the anemone Stichodactyla haddoni to the Marshall Islands represents a new record of host use by the endemic anemonefish Amphiprion tricinctus (PDF). Marine Biodiversity Records. 7. doi:10.1017/S1755267214001055. ISSN 1755-2672.
  5. ^ a b Daphne Gail Fautin, Gerald R. Allen (1997). Anemone fishes and their host sea anemones: a guide for aquarists and divers. Perth, Tây Úc: Western Australian Museum. ISBN 978-0730983651. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2019.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)